Thứ Ba, 31 tháng 12, 2013

Java Peristence Framework - MyBatis, Hibernate or JPA

Lập trình cơ sở dữ liệu là một trong những khía cạnh quan trọng của lập trình. Trong java ta đã từng làm quen với JDBC (Java DataBase Connectivity) dùng để kết nối đến một Datasource, và trong ứng dụng Enterprise ta có EJB (Enterprise Java Beans). Nhưng với sự phát triển của ngành lập trình, ORM (Object-Relational Mapping) ra đời như một sự cải tiến cho JDBC. ORM cho phép lập trình dễ dàng hơn, tuân thủ chặt chẽ lý thuyết lập trình hướng đối tượng, phù hợp với ứng dụng n-tier. Trong các framework ORM cho java nổi trội hơn cả là MyBatis, Hibernate, và JPA (sự cải tiến của EJB, trở thành chuẩn của Java EE). Vậy chúng ta cùng thử 1 so sánh nho nhỏ về 3 công cụ nổi tiếng và mạnh mẽ này.

1. Persistence Layer
Trước hết chúng ta nói qua một chút về persistence layer.

Các ứng dụng enterprise thường được xây dựng theo kiến trúc nhiều tầng, ví dụ như Presentation layer, Bussiness Layer, Persistence Layer. Tầng Persistence sẽ là tầng kết nối với DB, là cầu nối giúp ứng dụng tương tác lên cơ sở dữ liệu như INSERT, UPDATE data, hoặc lưu giữ data cho ứng dụng được get (SELECT) từ DB.
Như vậy một Persistence layer sẽ bao gồm sau:
- Tạo session
Persistence layer có nhiệm vụ tạo các phiên kết nối từ ứng dụng đến Cơ sở dữ liệu, mà qua các phiên này, ứng dụng sẽ tương tác được với DB, các phiên kết nối được thực hiện khi các connections được thiết lập.
- Thực thi query
Khi các connections được thiết lập, tầng persistence có nhiệm vụ thực thi các truy vấn của ứng dụng lên cơ sở dữ liệu như update, insert và select data, call store procedure... thông qua các phương thức được xây dựng và cung cấp trong persistence layer
- Mapping
Persistence layer sẽ ánh xạ cấu trúc DB, tables, columns, rows với các class, object của java, và nhờ dó, các java object có nhiệm vụ lưu trữ thông tin của các thực thể trong tables khi truy vấn (SELECT) hoặc lưu giữ thông tin từ người dùng và cập nhật vào DB(INSERT,UPDATE). ví dụ một mapping như sau:
CREATE TABLE PRODUCT (
ID INT PRIMARY KEY AUTO_INCREMENT,
NAME VARCHAR(255) NOT NULL,
PRICE INT NOT NULL
)
Một table có cấu trúc như trên sẽ được ánh xạ bởi class sau:
public class Product{
 private int id;
 private String name;
 private int price;

 public int getId(){
  return id;
 }

 public void setId(int id) {
  this.id = id; 
 }

 public String getName() {
  return name;
  }

  public void setName(String name) {
   this.name = name;
  }

  public String getPrice() {
   return price;
  }

  public void setPrice(String price) {
   this.price = price;
  }
}
 - Transaction and Exception
Khi truy vấn dữ liệu sẽ xảy ra các trường hợp các truy vấn được thực thi không thành công( truy vấn theo batch, ngắt kết nối....) những rủi ro xảy ra cho ứng dụng và dữ liệu trong DB khi truy vấn thất bại, hoặc connection bị ngắt kết nối thì peristence phải có nhiệm vụ phục hồi tình trạng trước đó của dữ liệu, hoặc đưa ra các ngoại lệ, các hướng dẫn, log để thông báo cho ứng dụng.
- Cache
Để phục vụ tốt hơn cho việc truy vấn ( hiệu suất, tốc độ, tính tương thích..) thông thường persistence layer sẽ load một metadata của Database vào ứng dụng, các mapping giữa các đối tượng trong ứng dụng với các tables thông qua các config, xml file, hoặc tạo ra các đối tượng, được lưu trữ như cache để có thể truy vấn lại mà không phải kết nối đến DB... Diều này sẽ làm cải thiện tốc độ cho chương trình nhưng đôi khi lại gây ra một sự cồng kềnh, phức tạp.
Java cung cấp JDBC để xây dựng tầng persistence, các  JDBC API sẽ sử dụng các SQL query được viết chung với code java và thực thi nó thông qua các command, statement... Tuy nhiên những ORM fw sau này được xây dựng đã lược bỏ sự phức tạp của JDBC, thay vào đó, bản thân các ORM sẽ định nghĩa các API cho riêng mình, giúp cho developer khỏi bận tâm hơn việc thao tác DB, mà tập trung vào xây dựng bussiness cho ứng dụng.
2. MyBatis
MyBatis là sự cải tiến của phiên bản IBatis 2, là một persistence framework, tự động mapping giữa SQL database và Java object thông qua các config được định nghĩa trong file xml. Là một persistence framework nhưng MyBatis khá đơn giản, dễ học và có kích thước nhỏ, số lượng các package ít hơn nhiều so với các persistence fw khác. MyBatis thao tác trực tiếp với câu lệnh SQL, nên dù là một persistence fw nhưng MyBatis chỉ có các tính năng như Create session, query data. còn Transaction thì không cũng cấp mà dùng của SQL. Ngoài ra MyBatis cũng không lưu trữ cache như Hibernate hoặc JPA. Các config để mapping được đặt trong các file xml, theo các cấu trúc của mybatis. Là một persistence framework nhưng thực ra Mybatis không truy vấn trên java object như các framework khác, mà truy vấn trược tiếp trên SQL, sau đó kết quả trả về sẽ mapping với java object thông qua resutset mapping. tính năng này ở Hibernate và JPA cũng có nhưng Mybatis đã tận dụng và phát huy sức mạnh, khiến cho framework này dù đơn giản, dễ học và phát triển ứng dụng nhanh nhưng tốc độ truy vấn cao, dễ dàng tùy biến với những query phức tạp, và không gây khó khăn hay ức chế cho dev. Vì thế nếu xây dựng ứng dụng mà yêu cầu thời gian phát triển ngắn, không phức tạp, dễ bảo trì, và dễ tìm hiểu cho dev thì mybatis là lựa chọn tối ưu nhất
3. Hibernate
Hibernate là một persistence fw được phát triển bởi Gavin King năm 2001 theo mô hình entity bean của EJB2, fw này sẽ mapping DB với các POJOs(Plain Old Java Object) và sẽ thao tác trên các oject đó. Hibernate sử dụng ngôn ngữ truy vấn riêng của mình là HQL (Hibernate Query language), tượng tự SQL, nhưng các truy vấn của Hibernate đều thực hiện trên object, điều này khá mới mẻ và khó tiếp cận đối với những ai chưa quen làm việc với ORM. Ngoài ra hibernate hỗ trợ rất lớn provider cho hầu hết các hệ quản trị cơ sở dữ liệu thông dụng, hỗ trợ Transaction, lưu cache.. Nên nếu một ứng dụng mà yêu cầu tương thích với nhiều datasource hỗ trợ truy vấn tự động, mạnh mẽ và an toàn, hoặc có thể thay đổi cấu hình mà không ảnh hưởng tới code bên trong thì Hibernate là một sự lựa chọn tốt hơn hẳn so với Mybatis
4. JPA
Ngoài Mybatis và Hibernate, JPA cũng là một persistence fw được ưu thích, JPA 1.0 được giới thiệu năm 2006, phiên bản JPA 2.0 ra đời năm 2009 và mới đây nhất ngày 22/04/2013 thì JPA 2.1 chính thức ra mắt.
Về cơ bản JPA khá giống với Hibernate, cả hai đều là nỗ lực khắc phục nhược điểm của EJB, đều sử dụng mô hình entity bean để mapping với database, và truy vấn trên các object đó. Tuy nhiên, điểm khác biệt là JPA sử dụng ngôn ngữ truy vấn JPQL(Java Persistence Query Language) - tương đồng với HQL, ngoài ra JPA không sử dụng riêng lẻ được, mà phải đi kèm với một provider khác để config, ví dụ như EclipseLink, Oracle TopLink, Hibernate. JPA trở thành chuẩn persistence của java, các API được định nghĩa trong package javax.pesistence. Nếu yêu cầu xây dựng ứng dụng tuân thủ chặt chẽ quy tắc của java enterprise, được hỗ trợ bởi java thì JPA là một đối thủ nặng ký đối với Hibernate
5. Tổng kết
Trên đây là vài sơ lược về MyBatis, Hibernate và JPA, sau này ta sẽ có những mô tả chi tiết và cụ thể hơn về mỗi fw.
Như vậy:
- MyBatis phù hợp với các ứng dụng có yêu cầu thời gian xây dựng ngắn, chi phí phát triển thấp, đơn giản và dễ học.
- Hibernate vs JPA phù hớp với các ứng dụng tuân thủ chặt chẽ quy tắc của ORM, hỗ trợ kết nối đến nhiều cơ sở dữ liệu, dễ điều khiển. Ngoài ra sự hộ trợ tài liệu, trợ giúp bởi cộng đồng dev của Hibernate và JPA (đặc biệt là Hibernate) là rất lớn. Tuy nhiên để xây dựng một ứng dụng với Hibernate hoặc JPA mất rất nhiều thời gian phát triển, không kể thời gian dài tìm hiểu công nghệ, và phải hiểu rõ, phân tích tường tận mọi khía cạnh của ứng dụng. Đặc biệt là mô hình ER của dữ liệu. vì các quan hệ của các bảng(1-1,1-n,n-n) được định nghĩa trong các entity, qua đó JPQL(hay HQL) mới có thể truy vấn được. Ngay cả việc xử lý kết quả lấy từ nhiều tables(SELECT nhiều tables) cũng gây ra khá nhiều rắc rối cho những người mới bắt đầu. Tuy nhiên các persistence sử dụng entity bean vẫn được ưa chuộng hơn cả.
Thanks & Regard!

Thứ Hai, 30 tháng 12, 2013

Theme trong Spring MVC

Một ứng dụng web đôi khi chúng ta cần thay đổi lại theme của giao diện, ví dụ như color, image, style..
Spring hỗ trợ thay đổi giao diện bằng interface org.springframework.ui.context.ThemeSource và load theme được định nghĩa trong resources bằng org.springframework.ui.context.support.ResourceBundleThemeSource
trong ví dụ này ta có 2 theme là default và blue, hiển thị sẽ như sau:
default


blue
và 2 flie css 
blue.css
body{
background-color:#5cf;
}
default.css
body{
 background-color:#fff;
}

Ta sẽ tạo 2 file properties trong thư mục scr/main/resources/themes
blue.properties
theme=resources/css/themes/blue.css
default.properties
theme=resources/css/themes/default.css
Các file này sẽ chỉ ra style nào được áp dụng qua tham số key = theme
Điều quan trọng nhất là cấu hình cho spring xử lý như mong muốn của ta
vào file /WEB-INF/spring/appServlet/servlet-context.xml
thêm vào đoạn config sau:

   
  
   
    
  
 
 
 
  
   
  
  
 
Trong đoạn config

   
  
   
    
   
ta khai báo bean của lớp org.springframework.web.servlet.theme.ThemeChangeInterceptor để có thể xử lý theme, khi người dụng truyền vào paramerer có name là "theme" bean "themeSource"
 
 
 
   
sẽ load file resource từ forder themes với basenamePrefix = ""
Bạn có thể sửa lại tên file theo prefix nào đó ví dụ: xxx_blue.properties thì bạn sẽ khai báo là basenamePrefix = "xxx" Bean "themeResolver"
   
  
  
sẽ lưu theme hiện tại vào cookie, ngoài ra khai báo theme default là "default" (tùy chọn)
Cuối cùng trong file jsp ta sẽ cấu hình như sau:
createProduct.jsp:
diepviends blog
" type="text/css"/>

diepviends blog
" type="text/css"/>

Source code:
https://www.mediafire.com/?gz4eq9u94pfqt03

Thks & rgds!

i18n trong Spring MVC

Trong bài này ta sẽ xây dựng website đa ngôn ngữ i18n (Internationalization)
Cấu trúc thư mục sẽ như sau:

trong thư mục /WEB-INF/i18n ta sẽ tạo 2 file properties application.properties và application_vi.properties lưu trữ các label cho ngôn ngữ mặc định  và ngôn ngữ tiếng việt ( ngôn ngữ mặc định đây là tùy chọn, cấu hình trong servlet-context.xml)
file application_vi.properties
file application.properties

và sửa lại view để hỗ trợ hiển thị theo ngôn ngữ tùy chọn
createProduct.jsp
listProduct.jsp

ở đây ta dùng <spring:message code="application.name" /> được hỗ trợ bởi spring, khai báo taglib là <%@taglib uri="http://www.springframework.org/tags" prefix="spring"%> để lấy message theo code được khai báo trong properties
Bây giờ sẽ cấu hình để ứng dụng có thể load các label theo key mà ta đã định nghĩa trong file properties
mở file config: /WEB-INF/spring/appServlet/servlet-context.xml
thêm vào đoạn sau:
 
 
  
 
 
 
  
 
 
  
  
 
 

bean localeChangeInterceptor sẽ xử lý yêu cầu về load resource theo ngôn ngữ được lựa chọn, dựa vào parameter là "lang"
bean localeResolver sẽ lưu ngôn ngữ hiện tại vào cookie của trình duyệt, ngôn ngữ mặc định đây là "en" (tùy chọn)
và bean messageSource sẽ load file properties được định nghĩa trong WEB-INF/i18n/, các file được load là application*.properties.
sau khi Run As project
vào theo các url sau để xem kết quả
http://localhost:8080/store/product/create?lang=en
http://localhost:8080/store/product/create?lang=vi
source code
https://www.mediafire.com/?skzzpktm4c5pmwm
Thks & rgds!

Thứ Năm, 26 tháng 12, 2013

Xử lý form trong Spring MVC

Trong phần này ta sẽ làm ví dụ xử lý dữ liệu lấy từ form ở trang JSP.
File->new->Spring project->Spring MVC Project
cấu trúc thư mục sẽ như sau:

Nội dung:
Sử dụng domain sau để lưu trữ thông tin của Product
package vn.ds.store.domains;

import java.io.Serializable;

public class Product implements Serializable {
 /**
  * 
  */
 private static final long serialVersionUID = 1L;
 private String name;
 private String price;

 public String getName() {
  return name;
 }

 public void setName(String name) {
  this.name = name;
 }

 public String getPrice() {
  return price;
 }

 public void setPrice(String price) {
  this.price = price;
 }
}


Chương trình sẽ lấy dữ liệu khi người dùng nhập vào

 và in ra danh sách


dữ liệu nhập vào sẽ được validate như hình sau

Đầu tiên ta xây dựng file properties để lưu trữ thông báo cho chương trình.
file product-messages.properties sẽ được tạo ra ở thư mục src/main/resources

các parameter được tryền vào theo các vị trí {0} {1}...
Để spring đọc được file resources này ta định nghĩa thêm 1 bean  là thể hiện của lớp org.springframework.context.support.ReloadableResourceBundleMessageSource để đọc messages.
vào file WEB-INF/spring/appServlet/servlet-context.xml thêm đoạn sau:

  
 

Toàn bộ file servlet-context.xml sẽ như thế này:


 
 
 
 

 
 

 
 
  
  
 
 
 
 
 
  
 
 



Xong phần cấu hình, giờ sẽ xây dựng một lớp ProductValidator để valid dữ liệu từ người dùng. Vì spring đã hỗ trợ validate trong interface Validator nên class của ta chỉ việc implements giao diện đó và triển khai phương thức validate() của Validator interface.
package vn.ds.store.validators;

import org.springframework.validation.Errors;
import org.springframework.validation.ValidationUtils;
import org.springframework.validation.Validator;

import vn.ds.store.domains.Product;

public class ProductValidator implements Validator {

 @Override
 public boolean supports(Class clazz) {

  return Product.class.isAssignableFrom(clazz);
 }

 @Override
 public void validate(Object target, Errors errors) {
  ValidationUtils.rejectIfEmptyOrWhitespace(errors, "name",
    "msg.required", new Object[] { "name" });
  ValidationUtils.rejectIfEmptyOrWhitespace(errors, "price",
    "msg.required", new Object[] { "price" });
  Product product = (Product) target;
  String name = product.getName();
  int max = 6;
  if (!name.isEmpty() && name.length() > max)
   errors.rejectValue("name", "msg.maxlength", new Object[] { "name",
     max }, "");
  if (!isNumber(product.getPrice().trim()))
   errors.rejectValue("price", "msg.number", new Object[] { "price",
     max }, "");
 }

 public boolean isNumber(String s) {
  for (int i = 0; i < s.length(); i++) {
   if (!Character.isDigit(s.charAt(i)))
    return false;
  }
  return true;
 }

}


Phương thức
ValidationUtils.rejectIfEmptyOrWhitespace(errors, "name",
    "msg.required", new Object[] { "name" });
sẽ kiểm tra xem trường "name" có emty hay có space không, nếu có sẽ add thêm một message vào đối tượng errors, nội dung msg sẽ được lấy theo id của msg trong resources là "msg.required" và truyền vào một parameter cho msg đó là một mảng Object có 1 phần tử là "name". Tương tự phương thức
errors.rejectValue("price", "msg.number", new Object[] { "price",
     max }, "");
cũng sẽ add thêm một msg của trường "price" vào errors theo msg là "msg.number" và set vào 2 parameter là một biến String "price" và một biến Integer max
Controller
package vn.ds.store.controllers;

import java.util.ArrayList;

import org.springframework.stereotype.Controller;
import org.springframework.ui.Model;
import org.springframework.validation.BindingResult;
import org.springframework.web.bind.annotation.ModelAttribute;
import org.springframework.web.bind.annotation.RequestMapping;
import org.springframework.web.bind.annotation.RequestMethod;

import vn.ds.store.domains.Product;
import vn.ds.store.validators.ProductValidator;

@Controller
@RequestMapping("product")
public class ProductController {

 private ProductValidator validator = new ProductValidator();

 @RequestMapping(value = "create", method = RequestMethod.GET)
 public String doGet(Model model) {
  model.addAttribute("product", new Product());
  return "createProduct";
 }

 @RequestMapping(value = "save", method = RequestMethod.POST)
 public String doPost(@ModelAttribute Product product,
   Model model, BindingResult errors) {
  validator.validate(product, errors);
  if (errors.hasErrors()) {
   return "createProduct";
  }
  ArrayList lst = new ArrayList();
  Product p = new Product();
  p.setName("product 1");
  p.setPrice("100");
  lst.add(p);
  lst.add(product);
  model.addAttribute("products", lst);
  return "listProduct";
 }
}


Ở đây Phương thức GET của url "/product/create" sẽ được xử lý bởi hàm doGet(). hàm này sẽ tạo mới một đối tượng Product và add vào model. sau đó trả về một view có tên là "createProduct". view này là view jsp được định nghĩa trong file servlet-context.xml. vì ta không định nghĩa cụ thể nên spring sẽ xem id của view theo tên file jsp. Phương thức POST của url "/product/save" sẽ xử lý khi người dụng submit form trong method doPost()
Đầu tiên sẽ validate dữ liệu theo đối tượng ProductValidator. nếu có lỗi sẽ trả về view "createProduct" là trang nhập dữ liệu
Nếu không có lỗi sẽ thực hiện add dữ liệu vào model và gửi xuống view "listProduct".
JSP
file createProduct.jsp trong thư mục WEB-INF/views sẽ như sau:
<%@ page language="java" contentType="text/html; charset=ISO-8859-1"
 pageEncoding="ISO-8859-1"%>
<%@ taglib uri="http://www.springframework.org/tags/form" prefix="form"%>




Insert title here



 
  
create
Name
Price
 

và view hiển thị danh sách listProduct.jsp
<%@ page language="java" contentType="text/html; charset=ISO-8859-1"
    pageEncoding="ISO-8859-1"%>
 <%@ taglib uri="http://java.sun.com/jsp/jstl/core" prefix="c"%>   




Insert title here



 
List of products
Name Price
${p.name} ${p.price}

Source code theo link http://www.mediafire.com/download/vki3lvwpsqtpam8/Store_handling_form.rar Thanks & Rgds!!!

Thứ Tư, 25 tháng 12, 2013

Hướng dẫn sử dụng Spring Tool Suice (STS)

Spring Tool Suice (STS) là một plugin cho Eclipse hỗ trợ dev phát triển các project dựa trên Spring framework
http://spring.io/tools/sts
Bài viết này sẽ hướng dẫn cách sử dụng STS
Trên thanh công cụ của Eclipse->Help->EclipseMarketplace
Gõ vào ô tìm kiếm với từ khóa STS
Chọn STS phù hợp với phiên bản Eclipse-> Install


Sau khi eclipse hoàn tất cài đặt và khởi động lại
cần phải bỏ valid derived query để tránh các cảnh báo lỗi không cần thiết
Window->Preferences->Spring.
ở tab Project validators->Data validator và bỏ check  ở Invalid Derived Query-> OK

Create một project Spring web MVC

File->New->Spring Project->Spring MVC Project

Nhập tên package và Finish



STS sẽ tự động tạo một project mẫu với một controller Home

Nếu Project bị lỗi, là do version của spring đó không còn maven không hỗ trợ để load thư viện về.
để sửa bạn vào file pom.xml. chọn properties của spring và thay bằng version khác (có thể tham khảo tại http://mvnrepository.com/artifact/org.springframework)


Sau đó save lại, và chọn Project->clean.
bây giờ click phải chuột vào Store->Run As
và xem kết quả!

Bây giờ hãy xem lại example vừa được tạo ra
cấu trúc thư mục sẽ như thế này

Một ứng dụng spring MVC sẽ theo đúng mô hình MVC chuẩn, ta quan tâm đến các file sau: HomeController.java, web.xml, servlet-context.xml

HomeController.java
package vn.ds.store;

import java.text.DateFormat;
import java.util.Date;
import java.util.Locale;

import org.slf4j.Logger;
import org.slf4j.LoggerFactory;
import org.springframework.stereotype.Controller;
import org.springframework.ui.Model;
import org.springframework.web.bind.annotation.RequestMapping;
import org.springframework.web.bind.annotation.RequestMethod;

/**
 * Handles requests for the application home page.
 */
@Controller
public class HomeController {
 
 private static final Logger logger = LoggerFactory.getLogger(HomeController.class);
 
 /**
  * Simply selects the home view to render by returning its name.
  */
 @RequestMapping(value = "/", method = RequestMethod.GET)
 public String home(Locale locale, Model model) {
  logger.info("Welcome home! The client locale is {}.", locale);
  
  Date date = new Date();
  DateFormat dateFormat = DateFormat.getDateTimeInstance(DateFormat.LONG, DateFormat.LONG, locale);
  
  String formattedDate = dateFormat.format(date);
  
  model.addAttribute("serverTime", formattedDate );
  
  return "home";
 }
 
}


Controller này sẽ xử lý request cho ull "/"  và trả về một view có tên là "home"

web.xml


 
 
  contextConfigLocation
  /WEB-INF/spring/root-context.xml
 
 
 
 
  org.springframework.web.context.ContextLoaderListener
 

 
 
  appServlet
  org.springframework.web.servlet.DispatcherServlet
  
   contextConfigLocation
   /WEB-INF/spring/appServlet/servlet-context.xml
  
  1
 
  
 
  appServlet
  /
 
Ứng dụng Spring sẽ được xoay quanh một servlet trung tâm là DispatcherServlet, các request khi yêu cầu đến ứng dụng đều được servlet này xử lý sau đó lựa chọn controller xử lý và trả về model and view nào phù hợp
Các request sẽ được xử lý theo url-mapping là "/"
ở đây bạn có thể sửa url để DispatcherServlet xử lý  như .html, .do, .xxx ....
Servlet-context.xml


 
 
 
 

 
 

 
 
  
  
 
 
 
 
 
 


Dòng <annotation-driven /> sẽ cho phép sử dụng các @notation, đây là một đặc điểm của spring kể từ spring 3 trở đi
các phương thức GET yêu cầu resources(image, js, css..) sẽ được khai báo bởi dòng
<resources mapping="/resources/**" location="/resources/" />
Khai báo viewResolver là jsp ở dòng
<beans:bean class="org.springframework.web.servlet.view.InternalResourceViewResolver">
<beans:property name="prefix" value="/WEB-INF/views/" />
<beans:property name="suffix" value=".jsp" />
</beans:bean>
Có thể khai báo nhiều viewResolver khác như pdf, excel...
Cuối cùng dòng
<context:component-scan base-package="vn.ds.store" />
sẽ cho phép quét các class được khai báo là controller (bởi anotation @Controller) ở trong package được chỉ ra, ở đây là vn.ds.store
Tương tự bạn có thể tạo ra nhiều controller khác  để xử lý các nghiệp vụ khác nhau trong package đó, và tạo file jsp trong /WEB-INF/views/ để hiển thị.

Thks & Rgds!

Thứ Tư, 18 tháng 12, 2013

Class xử lý Date trong java

Việc xử lý kiểu Date trong java khá phức tạp, nhiều khi làm cho dev rất mất thời gian.
đây là class chứa một số hàm cơ bản thao tác trên kiểu Date
(sử dụng thêm thư viện joda-time của java)
http://www.joda.org/joda-time/


package test;

import java.text.SimpleDateFormat;
import java.util.Date;

import org.joda.time.DateTime;
import org.joda.time.Years;
import org.joda.time.format.DateTimeFormat;

public class DateUtil {
 private static SimpleDateFormat simpleDateFormat;

 /**
  * get String of system date
  * 
  * @param format
  * @return String
  */
 public static String getSystemDateString(String format) {
  simpleDateFormat = new SimpleDateFormat(format);
  return simpleDateFormat.format(new Date());
 }

 /**
  * convert Date to String
  * 
  * @param date
  * @param format
  * @return String of date
  */
 public static String convertDateToString(Date date, String format) {
  if (null == date) {
   return null;
  }
  simpleDateFormat = new SimpleDateFormat(format);
  return simpleDateFormat.format(date);
 }

 /**
  * convert String to date
  * 
  * @param dateString
  * @param format
  * @return date
  */
 public static Date convertStringToDate(String dateString, String format) {
  if (null == dateString || "".equals(dateString.trim())) {
   return null;
  }
  return DateTime.parse(dateString, DateTimeFormat.forPattern(format))
    .toDate();
 }

 /**
  * calculate age
  * 
  * @param birthday
  * @return age
  */
 public static int calculateAge(Date birthday) {
  DateTime dtBirthday = new DateTime(birthday);
  DateTime now = new DateTime();
  Years age = Years.yearsBetween(dtBirthday, now);
  return age.getYears();
 }

 /**
  * add num day into date
  * 
  * @param number
  * @param date
  * @return added date
  */
 public static Date addingDays(int number, Date date) {
  DateTime dt = new DateTime(date);
  return dt.plusDays(number).toDate();
 }

 public static void main(String[] args) {
  String format = "dd/MM/yyyy";
  String dateString = "28/02/1991";
  Date date = null;
  Date now = new Date();
  System.out.println(getSystemDateString(format));
  date = convertStringToDate(dateString, format);
  System.out.println(date.toString());
  System.out
    .println(calculateAge(convertStringToDate(dateString, format)));
  System.out.println(convertDateToString(now, format));
  System.out.println("after adding: ");
  System.out.println(convertDateToString(addingDays(-90, now), format));
  System.out.println(convertDateToString(addingDays(20, now), format));
 }
}